Theo sử sách xưa còn ghi lại, làng Kế Môn được thành lập vào thế kỉ 14 dưới đời vua Trần Anh Tông. Làng Kế Môn nằm bên phá Tam Giang lại có đất nông nghiệp nên cư dân ở đây sống chủ yếu bằng nghề nông và đánh bắt cá.
Năm 1789, sau khi đại phá quân Thanh, vua Quang Trung đặt kinh đô tại Phú Xuân - Huế và ra lời kêu gọi người tài giúp vua quản lý đất nước. Ông Cao Đình Độ là người Thanh Hóa vào Huế xin làm nghề Kim hoàn, khi đi qua sông Ô Lâu thì cả gia đình bị nạn, người dân Kế Môn thấy thế cứu giúp nên mới thoát chết. Để tưởng nhớ công ơn cứu mạng của người dân làng kế Môn, sau khi vào cung, ông Độ đã trở về và dạy nghề cho người dân ở đây. Cũng từ đó làng Kế Môn trở thành cái nôi của nghề kim hoàn của xứ Đàng Trong.
Cũng tương truyền rằng: Năm Quý Mão (1783), quân Trịnh chiếm đóng Phú Xuân, đường vào Thuận Hóa thông thương nên ông Cao Đình Độ (sinh năm 1741 tại làng Cẩm Tú, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa) đã cùng vợ con men theo bờ biển vào Nam và dừng chân lập nghiệp tại làng Kế Môn. Tại đây, ngài đã truyền nghề cho con trai mình là Cao Đình Hương. Thừa hưởng đức tính thông minh của cha, ông Cao Đình Hương tiếp thu nghề một cách nhanh chóng và trở thành một nghệ nhân thành thục trong nghề. Và ông Cao Đình Độ còn truyền nghề cho một số học trò thuộc hai họ Huỳnh Công và Trần Mạnh. Tiếng lành đồn xa, năm 1790, vua Quang Trung triệu hai cha con ông cùng một số thợ bạc ở làng Kế Môn vào triều để lập đội Cơ vệ Ngân tượng, nơi chuyên nghiên cứu nghệ thuật điêu khắc, chạm trổ vàng bạc và đồ trang sức cung đình, giao hai cha con ông chức Lãnh binh và Phó Lãnh binh để quản lí Đội Cơ vệ ngân tượng.
Đến khi Nguyễn Ánh chiếm lại đất Thuận Hóa - Phú Xuân, lập nên vương triều Nguyễn, lấy niên hiệu Gia Long vào năm 1802, hai cha con ông Cao Đình Độ và Cao Đình Hương cũng như nhóm thợ làng Kế Môn vẫn được vua Gia Long trọng dụng, cấp bổng lộc và giữ nguyên tước cũ để tiếp tục bảo tồn và phát triển nghề kim hoàn trong Kinh thành. Hai ông vẫn được tiến cử giữ chức vụ này chứng tỏ là người có tài và đức hạnh nên được các đời vua và triều đình tin dùng. Các sản phẩm từ vàng bạc như trâm cài, hoa tai, vòng xuyến, nhẫn… được sử dụng ở Kinh thành Phú xuân chủ yếu được tạo tác bởi những người thợ kim hoàn làng Kế Môn.
Sau khi ông Cao Đình Độ qua đời, Nhà vua và Triều đình truy phong tước hiệu “Đệ nhất tổ sư”, được ban đất xây lăng như các quan đại thần và cử hành tang lễ chu tất, an táng tại ấp Trường Cởi (phường Trường An bây giờ). Ngày nay, đến thăm lăng nghệ nhân Cao Đình Độ, người ta vẫn còn thấy đôi câu đối bằng chữ Hán tán thán công đức của ông: “Kim hoàn triệu thỉ tam kỳ tổ - Ngọc bảo khai tiên thiên cổ sư”.
Sau khi cha mất, ông Cao Đình Hương quyết định từ quan về nhà để tìm người nối nghiệp gia đình. Quan Thượng thư Bộ Lại ở Thuận Hóa lúc bấy giờ là Trần Minh cùng vợ là Huỳnh Thị Ngọc đã mời ông về Phủ dạy nghề cho 3 người con là Trần Hòa, Trần Điện, Trần Điền và 3 người cháu là Huỳnh Quang, Huỳnh Bảo, Huỳnh Nhật. Sự việc đó đã biến làng Kế Môn thành làng thợ kim hoàn lớn vào bậc nhất ở xứ Đàng Trong.
Sau 11 năm cáo quan dạy nghề, ngày 8 tháng 2 năm Tân Tỵ, ông Cao Đình Hương qua đời, thọ 48 tuổi, được Vua Minh Mạng phong tước hiệu “Đệ nhị Tổ sư”, phần mộ được an táng cạnh mộ phần tổ phụ. Đồng thời, để tưởng nhớ công ơn khai sinh nên nghề bạc, Vua cho cấp đất xây dựng Nhà thờ Tổ nghề kim hoàn (Số 7, đường Chùa Ông, thành phố Huế hiện nay). Năm Khải Định thứ 9 (năm 1924), nhân dịp lễ Tứ Tuần Đại Khánh Tiết, xét hai ngài có nhiều công lao trong việc truyền bá nghề kim hoàn, vua Khải Định đã hạ chiếu sắc phong: “Dực bảo Trung Hưng Linh Phò chi thần” vào ngày 25 tháng 7 năm 1924. Đến đời vua Bảo Đại thứ 13 (năm 1938), hai ông tiếp tục được sắc phong cho người có công khai sáng ngành Kim hoàn Việt Nam và khu lăng mộ được kiến tạo, trùng tu đạt giá trị nghệ thuật cao.
Những người thợ kim hoàn ở Miền Trung đều coi hai ông là tổ sư của nghề Kim hoàn, lấy ngày 7/2 âm lịch (ngày giỗ của ông Cao Đình Hương, người trực tiếp truyền nghề rộng rãi trong dân gian) làm ngày giỗ Tổ. Ngày 2/3/1990, Di tích nhà thờ Tổ nghề kim hoàn được xếp hạng di tích cấp quốc gia theo Quyết định số 168-QĐ/VH của Bộ Văn hoá Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch).
Làng Kế Môn có nhiều nhà thờ họ với tất cả 16 nhà thờ, đây là những họ đã có công mở làng cũng như phát triển nghề kim hoàn. Hai trăm năm qua, hàng ngàn người làng Kế Môn đã rời làng, đem nghề kim hoàn phát triển khắp các đô thị, thị tứ, chợ lớn của cả nước, và sau này là vươn ra thế giới. Hiện nay, riêng tiểu bang Texas của Mỹ có 40 cơ sở làm vàng của người Kế Môn.
Để tưởng nhớ và tôn vinh nghề kim hoàn, cụ đồ An có viết bài thơ “Tặng người thợ bạc” treo kỷ niệm tại Từ đường nhà thờ tổ: “Lò bạc nghe ra tiếng cũng thèm Ngày ngày luyến tiếp khách hàng sang Dát hàn theo thế hình long hổ Đầu chạm làm nên cảnh phụng loan Lắm thuở cầm cung day mũi bạc Từng phen lên ngựa trửi ngàn vàng Rao tài bủa vớt oai lừng lẩy Nghề nghiệp lâu dài vững đặc san”
Gìn giữ và phát huy nghề truyền thống cha ông để lại, nghề làm kim hoàn trở thành nghề kiếm sống của người dân Kế Môn. Tại Huế, các sản phẩm kim hoàn được trưng bày tại Tịnh Tâm Kim Cổ (đối diện với di tích Hồ Tịnh Tâm) của Nghệ nhân nhân dân Trần Duy Mong, rất thuận tiện cho du khách thập phương thưởng lãm. Tại đây có một bảo tàng thu nhỏ về nghề kim hoàn xứ Huế. Gia chủ bài trí khá nhiều hiện vật quý và có giá trị như các bản sao sắc phong của vua nhà Nguyễn dành cho nghề kim hoàn Huế; các dụng cụ cổ dùng chế tác kim hoàn như búa, kìm, kẹp, dùi, giũa, khuôn, đèn khò, bể thổi… Không gian chế tác, nơi làm việc của thợ cũng được sắp đặt, bài trí mang hơi hướng cổ, khiến cho khách tham quan như cảm nhận được môi trường, không khí làm việc của thợ kim hoàn xưa.
Tại các kỳ Festival nghề truyền thống Huế, người làng Kế Môn đều tham dự để góp phần tôn vinh một làng nghề "danh bất hư truyền" tại Cố đô.
Ngày nay, nghề kim hoàn trở thành một ngành nghề thủ công truyền thống được ưa chuộng, không chỉ vì giá trị kinh tế mà còn cả trình độ thẩm mỹ của những mặt hàng kim hoàn chứa đựng nhiều sắc thái Việt. Và khu lăng mộ của tổ nghề Kim hoàn Việt Nam trên đất Huế luôn được các đệ tử, con cháu gìn giữ hương khói và là nơi hành hương linh thiêng của những ai theo nghề kim hoàn để tri ân những bậc tiền nhân đã có công khai mở một nghề để lại danh thơm và hồn thiêng dân tộc.
Với niềm đam mê, lòng yêu nghề, những người thợ kim hoàn đã cho ra đời những sản phẩm mang theo tâm huyết của bản thân. Mỗi một sản phẩm đều chứa đựng cái hồn của người thợ - đó chính là thành công của người thợ Kế Môn.
Sản phẩm kim hoàn ở Kế Môn nổi tiếng có chất lượng tốt so với nhiều nơi khác với kỹ thuật tay nghề tinh xảo và chạm khắc cầu kỳ được làm ra bởi những người thợ có kinh nghiệm, khéo tay và giàu khiếu thẩm mỹ sáng tạo, thể hiện rõ nhất là trên các đồ trang sức như vòng, kiềng, nhẫn, lắc, dây chuyền, khuyên tai bằng vàng hoặc bạc.
Ngày nay, dù con dân Kế Môn đã tỏa đi xa nhưng có lẽ Huế mới thật sự là cái nôi bậc nhất cho nghề kim hoàn phát triển khi còn giữ được dấu ấn lịch sử của một thời vang bóng. Ngoài khu mộ tổ và nhà thờ tổ kim hoàn vẫn còn lưu giữ ở đất kinh thành thì cũng chỉ có đến Huế du khách mới có cơ hội trực tiếp chứng kiến hoặc tham gia các công đoạn sản xuất của nghề kim hoàn truyền thống.