Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ 2 năm 1285, hai vương triều Đại Việt và Champa đã kề vai sát cánh trên trận tuyến chống kẻ thù chung. Sự liên minh khắng khít đã làm cho thượng hoàng Trần Nhân Tông trong chuyến vân du Chiêm Thành năm 1301 đã hứa gả công chúa út của mình là công chúa Huyền Trân cho vị vua lân bang trẻ tuổi có chí lớn. Lúc đó Huyền Trân khoảng 14 tuổi.
Năm năm sau, khi Huyền Trân đã trưởng thành, sứ bộ đã đến kinh đô xin định sính lễ. Triều đình Đại Việt phân vân, rốt cục vua Anh Tông đã thực hiện lời hứa của thượng hoàng, và công chúa Huyền Trân đã hy sinh tình riêng, vì dân tộc chấp nhận kết hôn cùng với Chế Mân. Sứ bộ đã dâng sính lễ trọng hậu là đất hai châu Ô, Lý (vùng đất Thuận Hóa - Phú xuân - Thừa Thiên Huế ngày nay) và rước công chúa vu quy về Vijaya.
Tháng 7 năm 1306, đoàn hải thuyền vượt biển về Nam. Đến cửa Ô Long, đoàn thuyền ghé nghỉ. Xúc động vì sự xuất giá của em gái, vua Anh Tông đã cho đổi tên cửa biển này là Tư Dung hải môn, để bày tỏ nỗi niềm của mình và nhắc nhở cho đời sau mãi mãi nhớ đến sự hi sinh vì nghĩa lớn của nàng công chúa Việt Nam.
Các triều đại sau đều sắc phong bà là thần hộ quốc. Vua triều Nguyễn ban chiếu đền ơn công chúa "trong việc giữ nước giúp dân, có nhiều linh ứng", nâng bậc tăng là "Trai Tĩnh Trung Đẳng Thần". Để ghi nhớ công ơn của Công chúa, Triều đình nhà Nguyễn đã lập miếu Đại Đế Vương ở làng Lịch Đợi, phường Đúc, TP Huế, thờ các vị khai quốc công thần, trong đó có Công chúa Huyền Trân. Tiếc là miếu thờ này ngày nay không còn. Đến đầu năm 2006, Trung tâm Văn hóa Huyền Trân được khởi công xây dựng. Một năm sau đó, ngày 26 tháng 3 năm 2007, công trình khánh thành nhân kỷ niệm tròn 700 năm Thuận Hóa - Phú Xuân.
Lễ hội đền Huyền Trân Công chúa được tổ chức chức định kỳ hàng năm vào ngày mồng 9 tháng Giêng - ngày giỗ của Công chúa Huyền Trân, với ý nghĩa tri ân công đức của bà vì sự phát triển của nước Đại Việt.